GIÁO XỨ HÀ DỪA HÀNH TRÌNH VÀ PHÁT TRIỂN

*Đông giáp Giáo xứ Bình Cang ( Ngã Ba Cải lộ tuyến, ranh giới Xã Diên Toàn).
*Tây giáp Giáo xứ Đất Sét (Huyện Khánh Vĩnh).
*Nam giáp Giáo xứ Cư Thịnh ( Cầu Lùng ) và Giáo xứ Đồng Hộ ( Cầu Ông Đường ).
*Bắc giáp Giáo xứ Cây Vông (Sông Cái) và Giáo xứ Đồng Dài.

Gồm Thị Trấn Diên Khánh, Xã Diên Toàn, Diên Lạc, Diên Thạnh, Diên Hoà và Diên Bình.

Thành lập :

Bổn mạng : Lễ thánh Tâm Chúa Giêsu
Kính ngày :
Số giáo dân :
Linh mục quản xứ : Phêrô Phạm Ngọc Lê
Địa chỉ hiện nay : Trường thạnh, Diên Thạnh, Diên Khánh ,
Khánh Hòa - Đt

Giờ lễ

Thánh lễ Chúa Nhật
Chiều thứ 7 :18g30
Thánh lễ I : 5g 00
Thánh lễ II : 7g00
Thánh lễ ngày thường
Sáng : 4g30
Chiều thứ 5 : 18g30
Chầu Mình Thánh Chúa :

Lược sử :
1. Vị trí địa lý
Đông giáp Giáo xứ Bình Cang (Ngã Ba Cải lộ tuyến, ranh giới Xã Diên Toàn). Tây giáp Giáo xứ Đất Sét (Huyện Khánh Vĩnh). Nam giáp Giáo xứ Cư Thịnh ( Cầu Lùng ) và Giáo xứ Đồng Hộ ( Cầu Ông Đường ). Bắc giáp Giáo xứ Cây Vông (Sông Cái) và Giáo xứ Đồng Dài.
Gồm các Xã : Thị trấn Diên Khánh, Xã Diên Toàn, Xã Diên Thạnh, Xã Diên Lạc, Xã Diên Bình, Xã Diên Hòa, Xã Diên Phước

2. Hình thành và phát triển

Theo tài liệu “ Histore de la mission de cochinchine (1958-1823) thì Giáo xứ Hà Dừa có trước năm 1740 vì ở trang 131 ghi như sau : Visitatio Ecclesiae in Pago HA DUA 921.09.1940) Hace Ecclesia crecta fuit Abraham III Đ Go me Labbé MARINO , Episcopo Tipolitans subtitnlo s. Josephi.

Có dịp đến Diên Khánh, sau khi đi qua khỏi Tây Môn thành Khánh Hòa (một di tích lịch sử do Tướng Võ Tánh xây dựng cách đây hơn thế kỷ để chống Tây Sơn, sau này là cơ sở đầu não tỉnh Khánh Hòa của Nam Triều), rồi theo tỉnh lộ 4 lần về hướng tây khoảng trên 100m, du khách sẽ gặp một ngôi thánh đường đồ sộ, nguy nga; tháp chuông cao ngất và tường xây chung quanh, đó là thánh đường giáo xứ Hà Dừa, một công trình cổ, được xếp vào hàng di tích mang nhiều tranh luận mỗi khi bàn đến việc phá đổ để xây dựng mới.

Hà Dừa…không hiểu danh từ này có tự bao giờ và trong bối cảnh lịch sử ra sao, nhưng theo truyền thuyết thì xưa kia hai bờ sông mọc toàn loại dừa nước nên mới có tên Hà Dừa, tức là xứ có nhiều dừa hay là sông dừa (Hà là sông, dừa là cây dừa).

Giáo xứ Hà Dừa là một trong những giáo xứ có lâu đời tại Khánh Hòa, hầu hết giáo dân không là dân nguyên quán mà có lẽ từ những tỉnh Quảng Nam, Phú Yên, được qui tụ bởi phong trào Nam tiến thời Chúa Nguyễn ( ).

Hà Dừa xưa có chung thánh đường với giáo xứ Cây Vông ở Hà Gai (thuộc Xã Diên Lâm hiện nay) một vài di tích vẫn còn trong vùng đất ông Lập, nội tổ ông Nguyễn Bàn, sau bị đốt phá mới di chuyển về khuân viên hiện nay thuộc làng Trường Thạnh.

Thánh đường đầu tiên được thành lập trên khuôn viên hiện tại nhưng chắc chắn là có trước khi Võ Tánh xây thành Khánh Hòa và đến năm 1870, Cố Bửu (Geffroy) kiến tạo lại theo kiểu Á Đông, tuy nhỏ nhưng rất đẹp., có hai cửa ngõ lầu giống cửa thành. Còn thánh đường hiện thấy được xây dựng bằng hai thời kỳ, đầu tiên năm 1893 do Cố Ngoan (Saulcoy), Ngài vận động giáo dân đốn gỗ, phái ông chức Tích đi Làng Sông và Kim Châu lấy kiểu chạm trổ, Cha Nhuận vẽ sơ đồ. Năm 1917, Cố Quới (Salomez) mới xây tháp chuông, đóng trần nhà thờ, làm nhà xứ.

Các vị chủ chăn và bàn tay xây dựng :

Linh mục Hy làm chánh xứ tiên khởi (người Quảng Nam) kế đến là Linh mục Vận (Phú Yên) không rõ năm nào. Thời kỳ này giáo dân còn ít và cư trú rãi rác, Linh mục lại thiếu nên từ Gò Muồng (Ninh Hòa) đến Hà Dừa (Diên Khánh) chỉ có một Cha sở và không biết nơi nào là chánh xứ.

Năm 1870, Cố Bửu (Geffroy) thay Linh mục Vận và năm 1876 Ngài đi gai hiệu Bình Định, Cố Bình (Laurent) đến thay thế.

Năm 1878 Cố Đoài (Auger) thay Cố Bình, thời kỳ này lãnh khai phá ruộng Cầu Lùng (Phước Trạch, ruộng Sình (Cống Vông) ngân khoản do ông đốc phủ nghiêm của Sài Gòn dâng cúng. Cố Đoài còn mua ruộng Cư Thạnh, cất nhà thờ Cư Thạnh, mua ruộng Nghiệp Thành và Lương Phước. Ngài đề cử Ong trùm Xuân và ông Câu Đậu đứng hộ. Cũng trong thời kỳ này Văn Thân bách hại, thánh đường bị thiêu hủy, ít lâu sau Cố Đoài hồi hương về Pháp.

Năm 1889, Cố Định (Gagnaire) đến nhưng chỉ có mấy tháng lại đi Làng Sông giao cho Cố Minh (Garnier).

Năm 1893, Cố Minh về Rôma đại diện Hội Thừa Sai (MEP) Ngài dâng cúng tượng Thánh Tâm( bổn mạng) và tượng Đức Mẹ.

Từ năm 1893 đến 1897 là cố Ngọc (Tissier), kế là Cố Ngoan (Saulcoy). Ngài ở được hai năm rồi đi nhà "đá". Cha Nho đến thay thế.

Năm 1905 Cố Bình đáo nhậm chánh xứ nhưng Ngài thường ở Bình Cang nên có Linh mục Hương làm phó.

Năm 1910 Cố Quới (Salomez) thay Cố Bình, Ngài trông nom cả Cây Vông và Đại Điền. Cố Quới từ trần tại Hà Dừa năm 1924 và được an nghỉ tại lòng thánh đường.

Cũng trong năm 1924 Cố Nghiêm (Guéno) đến, Ngài xây dựng nhiều, nào nhà trường, nhà lẫm, nhà xe, nhà bếp, mở rộng thánh đường, xây thành, sửa nhà xứ, mua hai chuông (thời giá bấy giờ là 964 đồng, đỡ đầu là Linh mục Nhuận cúng 50 đồng và bà Hào Lành ở Phan Rang cúng 100 đồng) .

Năm 1932 Linh mục Đoàn thay Cố Nghiêm, đem hai chuông lên tháp.

Năm 1936, Linh mục Bính đến và đã xây dựng lại bề thành trước thánh đường, cất nhà thờ Đồng Dài.

Năm 1943 Linh mục Hiến thay Linh mục Bính, Ngài lợp lại mái nhà thờ, nhà xứ, đống ghế, làm nền nhà thờ, đống bàn thờ gỗ, xây dựng hang đá Đức mẹ, dựng Thánh giá… cất lại nhà thờ Cư Thịnh. Ngài còn chuẩn bị vật liệu để xây dựng thánh đường Đồng Hộ, nhưng tháng 9.1945 Việt Minh cướp chính quyền chương trình bỏ dở. Thời kỳ này phong trào Công Giáo Tiến Hành nảy nở : Hội Thánh Thể (1944), Nghĩa Binh Thánh Thể (1946), Legio Mariae (1955), Dòng Ba Phanxicô và Hội Trợ Táng (1956).
Năm 1957, chia giáo phận, Linh mục Hiến về Qui Nhơn. Cố Thơm (Thomeret) rồi Linh mục Nghĩa lần lượt đến nhưng Ngài chỉ ở khoảng 7-8 tháng rồi giao cho Linh Mục Hồ Ngọc Hạnh từ năm 1964, rồi đến Cố Vị (P. Jeanningros).

Kế đến là :
*Linh mục Phêrô Nguyễn quang Sách : từ 1973 đến 01.06.1979

*Linh mục Phêrô Nguyễn văn Nho : từ 01.06.1979 đến 13.11.1993

*Linh mục Phêrô Phạm ngọc Lê : từ 13.11.1993 đến 8.2002

*Linh Mục Tadeo Lê Văn Thanh 10.2002 đến 21.10.2007

*Linh Mục FX. Trịnh Hữu Hưởng 21.10.2007 đến nay

    • Trong những bàn tay xây dựng nên giáo xứ Hà Dừa, nếu chỉ đề cập đến hàng giáo sĩ mà thôi là điều thiếu sót. Chúng tôi muốn giới thiệu nơi đây "cộng đồng giáo dân", trong đó có hàng chức việc, thành phần đã hăng say, tận tụy hy sinh suốt đời mình hay ít nhất cũng năm ba mươi năm. Chúng tôi xin đan cử những vị xuất sắc như:


Qúy ông trùm : Trùm Phụng (thân phụ linh mục Phan), trùm Khuyên , trùm Xuân, trùm Học, trùm Tích và trùm Đính.

Quý ông Câu :
câu Chiêu (thân phụ linh mục Miễn), câu Toại, câu Hườn, câu Vịnh, câu Đậu (thân phụ linh mục Tường, linh mục Thì), câu Nuôi (thân phụ linh mục Quá), câu Huề, câu Thâm.

Quý ông : Cai Ích, Cai Tim, Giáp Liềm và bà trùm Thứ.
Những vị trên đều đã an nghỉ trong Chúa.

Hoa qủa ơn gọi của Giáo xứ:

Linh mục Nhuận, - Linh mục Cẩm, - Linh mục Miễn, - Linh mục Phan ,
Linh mục Thìn, - Linh mục Huy, - Linh mục Chọn, - Linh mục Tường,
Linh mục Thì, - Linh mục Quá, - Linh mục Lễ,
Linh mục Giuse Nguyễn trung Hiếu,
Linh mục J.b. Đoàn sỹ Thục,
Linh mục F.x Nguyễn chí Cần.
Linh mục Giuse Nguyễn văn Thi.

Tu sĩ : 4 nữ tu dòng khiết tâm Đức Mẹ
1 nữ tu dòng Franciscaine
2 nữ tu dòng nữ tử bác ái
1 nữ tu dòng Saint Paul Đà Nẵng

2 Nữ tu dòng mến Thánh giá Qui Nhơn
chủng sinh: 3 chủng sinh giáo phận
dự tu 30 (15 nam, 15 nữ)

Sinh hoạt giáo xứ


1. Các lớp giáo lý
Các lớp giáo lý từ tháng 09 đến tháng 06. Giáo lý Tân tòng chia làm hai khóa mỗi khóa 5 tháng.
Giáo lý hôn nhân : hai năm một khóa kéo dài 10 tháng dành cho các em đã học xong vào đời III và các em trên 18 tuổi chưa lập gia đình học vào chiều Chúa Nhật từ 14h00-16h00
2. Các hoạt động :
Hướng tương lai

Ưu tư của Giáo xứ : củng cố đức tin cho giới trẻ, nâng cao học vấn, sinh hoạt đạo đức gia đình.



(Ghi chú: Bài viết thời cha P.Phạm Ngọc Lê, quản xứ Hà Dừa, khoảng sau năm 1993. Long Paul).